Phì đại lành tính tuyến tiền liệt là gì? Các công bố khoa học về Phì đại lành tính tuyến tiền liệt

Phì đại lành tính tuyến tiền liệt (BPH) hay còn được gọi là tăng sinh tuyến tiền liệt, là một tình trạng mà tuyến tiền liệt trong cơ thể nam giới phát triển quá...

Phì đại lành tính tuyến tiền liệt (BPH) hay còn được gọi là tăng sinh tuyến tiền liệt, là một tình trạng mà tuyến tiền liệt trong cơ thể nam giới phát triển quá mức, gây tạo áp lực lên niệu đạo và bàng quang. Điều này có thể dẫn đến các triệu chứng như tiểu nhiều lần trong ngày, tiểu đêm, tiểu không đủ, tiểu không kiểm soát và đau buốt khi tiểu.

Phì đại lành tính tuyến tiền liệt không phải là một bệnh nghiêm trọng hay ung thư. Tuy nhiên, nếu không được điều trị, nó có thể gây ra nhiều vấn đề sức khỏe và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người đàn ông. Điều trị cho BPH thường bao gồm thuốc, thay đổi lối sống và trong những trường hợp nghiêm trọng, phẫu thuật.
Phì đại lành tính tuyến tiền liệt là một bệnh thông thường ở nam giới, đặc biệt là ở nhóm tuổi trung niên. Nó có xu hướng phát triển từ giai đoạn trung niên trở đi và có mức độ tăng dần theo tuổi.

Nguyên nhân chính của BPH chưa được hiểu rõ hoàn toàn, tuy nhiên, có một số yếu tố được cho là góp phần vào phát triển bệnh như:

1. Tác động hormone: Hormone dihydrotestosterone (DHT) có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển tuyến tiền liệt và cơ bắp xung quanh niệu đạo. Sự tăng của DHT có thể là một yếu tố góp phần vào phì đại tuyến tiền liệt.

2. Tuổi tác: BPH thường phát triển từ độ tuổi trung niên trở đi, khiến rất nhiều người nam giới trên 50 tuổi bị ảnh hưởng. Mức độ và tốc độ phát triển của bệnh có thể khác nhau ở mỗi người.

3. Yếu tố di truyền: Nếu có thành viên trong gia đình bị BPH, nguy cơ mắc bệnh cũng cao hơn.

Các triệu chứng của BPH gồm:

1. Tiểu nhiều lần và mất kiểm soát tiểu: Người bị BPH thường cảm thấy cần tiểu liên tục và ngày càng có khó khăn trong việc kiểm soát bàng quang.

2. Tiểu đêm: BPH cũng có thể làm tăng nguy cơ tiểu đêm, khiến người bệnh phải thức dậy nhiều lần trong đêm để tiểu.

3. Tiểu không đủ: Bàng quang không thể được làm trống hoàn toàn, dẫn đến cảm giác chưa đủ tiểu sau khi đi tiểu.

4. Tiểu không kiểm soát: Người bị BPH có thể gặp khó khăn trong việc kiểm soát thời điểm tiểu và điều chỉnh lưu lượng tiểu, dẫn đến tiểu rơi không kiểm soát.

5. Đau buốt khi tiểu: Một số người bị BPH có thể trải qua cảm giác đau hoặc khó chịu khi tiểu.

Để chẩn đoán BPH, bác sĩ thường tiến hành các xét nghiệm, kiểm tra tình trạng tiểu tiên và một số phương pháp hình ảnh như siêu âm, cystoscopy, hay xét nghiệm máu.

Điều trị BPH có thể bao gồm:

1. Thuốc: Có nhiều loại thuốc được sử dụng để giảm các triệu chứng BPH, bao gồm thuốc làm co cơ bàng quang và thuốc giúp giảm kích thước tuyến tiền liệt.

2. Thay đổi lối sống: Điều chỉnh chế độ ăn uống, tập thể dục đều đặn và kiểm soát cân nặng có thể giảm triệu chứng BPH.

3. Phẫu thuật: Đối với những trường hợp nghiêm trọng hoặc không phản ứng với phương pháp điều trị khác, phẫu thuật có thể được khuyến nghị để loại bỏ bớt hoặc toàn bộ tuyến tiền liệt.

Là một tình trạng lý thuyết tính của tuổi già của nam giới, đa số BPH không gây nguy hiểm đến tính mạng, nhưng nếu không được quản lý cẩn thận, nó có thể gây ra biến chứng và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống hàng ngày. Để đảm bảo chẩn đoán và điều trị phù hợp, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa tuyến tiền liệt.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phì đại lành tính tuyến tiền liệt":

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ CỦA VIÊN NANG TAVINGA TRÊN BỆNH NHÂN PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 499 Số 1-2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá tác dụng của  chế phẩm Tavinga trên bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Đối tượng và phương pháp: 56 bệnh nhân được chẩn đoán phì đại lành tính tuyến tiền liệt được điều trị bằng chế phẩm Tavingavới liều 3 viên/lần x 2 lần x 60 ngày. Kết quả: Sau 2 tháng điều trị, các triệu chứng rối loạn tiểu tiện đã được cải thiện rõ rệt, điểm trung bình IPSS trung bình giảm từ 17,62 ± 7,42 xuống còn 4,84 ± 3,75; Điểm chất lượng cuộc sống QoL trung bình giảm từ 3,90 ± 0,47 xuống còn 1,70 ± 0,35; lưu lượng nước tiểu trung bình tăng từ 4,26 ± 2,65ml lên 8,76 ± 2,97ml; thể tích nước tiểu tồn dư giảm từ 35,34 ± 12,86ml xuống còn 14,51 ± 10,29ml; kích thước thể tích tuyến tiền liệt trung bình giảm trung bình 13,82m3. Sức khỏe bệnh nhân được cải thiện như ăn ngủ tốt, tiêu hóa cải thiện, tinh thần thoải mái, chức năng sinh lý được cải thiện. Không thấy có biến đổi các chỉ số sinh hóa, huyết học và các tác dụng không mong muốn của sản phẩm sau 2 tháng sử dụng chế phẩm Tavinga. Kết luận: Chế phẩm Tavinga có tác dụng cải thiện rối loạn tiểu tiện rõ rệt trên bệnh nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
#Chế phẩm Tavinga #phì đại lành tính tuyến tiền liệt #rối loạn tiểu tiện
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI LOẠN TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Đặt vấn đề: Trầm cảm thường gặp ở người bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt, sự xuất hiện trầm cảm có thể để lại những hậu quả bất lợi như tăng nhu cầu sử dụng các dịch vụ y tế, giảm tuân thủ điều trị, thời gian nằm viện lâu hơn, và suy giảm chức năng. Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn trầm cảm ở người bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 111 người bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt khám và điều trị Bệnh viện Bạch Mai và Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương từ tháng 08/2021 đến tháng 08/2022. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là người bệnh trên 60 tuổi (90,1%); độ tuổi trung bình 70,08 ± 8,15; nơi sinh sống chủ yếu ở nông thôn (63,1%); trình độ học vấn trung học cơ sở (31,5%). Có 26,1% người bệnh có rối loạn trầm cảm theo ICD10, trong đó trầm cảm nhẹ chiếm 18,7%; triệu chứng khởi phát hay gặp nhất là buồn chán, bi quan (37,9%); trong các triệu chứng đặc trưng của trầm cảm, khí sắc trầm là hay gặp nhất (89,7%); trong các triệu chứng phổ biến của trầm cảm, hay gặp nhất là rối loạn giấc ngủ (96,5%). Kết luận: Trầm cảm là rối loạn tâm thần thường gặp ở người bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Trầm cảm thường khởi phát đầu tiên bởi buồn chán, bi quan. Triệu chứng đặc trưng hay gặp nhất là khí sắc trầm, triệu chứng phổ biến hay gặp là rối loạn giấc ngủ.
#Trầm cảm #phì đại lành tính tuyến tiền liệt #đặc điểm lâm sàng
KẾT QUẢ BÓC NHÂN PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT NỘI SOI QUA NIỆU ĐẠO BẰNG HOLMIUM-LASER TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục đích: Trong nghiên cứu này chúng tôi áp dụng kỹ thuật bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt nội soi qua đường niệu đạo theo phương pháp 1 khối cải tiến và đánh giá tính an toàn, kết quả sớm của phẫu thuật bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt theo phương pháp bóc nhân một khối. 2. Phương pháp nghiên cứu: chúng tôi nghiên cứu tiến cứu trên 258 bệnh nhân rối loạn tiểu tiện do u phì đại lành tính tuyến tiền liệt, được phẫu thuật bóc nhân phì đại bằng laser Holmium từ tháng 1/2020 đến tháng 1/2022. Kỹ thuật phẫu thuật bóc nhân phì đại 1 khối cải tiến được thực hiện bằng 2 đường rạch ở vị trí 12h và 6h. Trong mổ chúng tôi đánh giá thời gian bóc nhân phì đại, thời gian say nhỏ và lấy bệnh phẩm ra ngoài. Lượng máu mất, các tai biến trong mổ. Các thông số sau mổ bao gồm: thời gian đặt ống thông niệu đạo, thời gian nằm viện. Tình trạng tiểu tiện sau mổ. Các biến chứng sau mổ được đánh giá theo phân độ của Clavien–Dindo. Bệnh nhân được đánh giá theo dõi ở thời điểm 3 tháng sau mổ. 3. Kết quả nghiên cứu: tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 74,51. Trọng lượng trung bình tuyến tiền liệt là 77,54g. Lượng PSA trung bình là 8,23ng/ml. Điểm IPSS trước mổ trung bình là 25,27. Thời gian mổ trung bình là 72,55 phút, trong đó thời gian bóc nhân phì đại là 50,76 phút, thời gian say bệnh phẩm là 18,55 phút. Lượng máu mất trong mổ trung bình là 7,26g/l. Trong mổ có 8 bệnh nhân chảy máu nặng phải truyền máu. Thời gian đặt ống thông niệu đạo trung bình là 4,55 ngày, thời gian nằm viện trung bình là 5,31 ngày. Sau mổ có 18 (6,97%) bệnh nhân bí đái phải đặt lại ống thông niệu đạo. 32 bệnh nhân đái không tự chủ khi thay đổi tự thế (12,40%). Sau 3 tháng 229 (88,75%) bệnh nhân tiểu tiện bình thường, tự chủ. Không có biến chứng nặng sau mổ. 29 bệnh nhân còn đái rỉ gắng sức (11,24%). Điểm IPSS sau mổ trung bình là 4,27 ± 3,7. Trọng lượng TTL xác định trên siêu âm sau mổ là 22,50 ± 2,5g. 4. Kết luận: quy trình bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt một khối, thực hiện bằng hai đường rạch ngang ở vị trí 6h và đường dọc ở 12h bằng laser Holmium là phẫu thuật an toàn dễ thực hiện và có hiệu quả với mọi kích thước của u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
#Bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt #holmium laser #HoLEP
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI QUA ĐƯỜNG NIỆU ĐẠO CẮT PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG ĐIỆN LƯỠNG CỰC Ở BỆNH NHÂN CÓ BỆNH LÝ TIM MẠCH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo cắt phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng điện lưỡng cực ở bệnh nhân có bệnh lý tim mạch. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi tiến cứu trên 63 bệnh nhân bị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt (UPĐLTTTL) có bệnh lý tim mạch kèm theo được điều trị bằng cắt đốt nội soi qua đường niệu đạo bằng điện lưỡng cựctại bệnh viện Đại Học Y Hà Nội từ tháng 01 năm 2019 đến tháng 5 năm 2021. Kết quả: NC hồi cứu 63 BN,độ tuổi trung bình là 73.5 ± 9.1, bệnh lý tim mạch đồng mắc: tăng huyết áp (THA) 73%, rối loạn nhịp tim 19.1%, bệnh mạch vành 9.5%, đặt máy tạo nhịp 6.4%, 8 bệnh nhân dùng thuốc chống đông. Điểm IPSS và QoL trước mổ 22.5 ± 3.8 và 4.6 ± 0.7, trọng lượng tuyến tiền liệt 68.3 ± 31.8g, phân suất tống máu (EF) trên siêu âm tim 68.9 ± 6.0%. Thời gian phẫu thuật 55.3 ± 21.4 phút, thời gian hậu phẫu 6.4 ± 2.0 ngày. Không gặp biến chứng trong mổ. Không có trường hợp nào đau thắt ngực, khó thở hay phải can thiệp tim mạch. Ba trường hợp biến chứng sau mổ: 2 chảy máu và 1 đau tức chân 2 bên, tất cả đều được điều trị nội ổn định. Tái khám 1 tháng không có trường hợp nào phải nhập viện điều trị về tim mạch, 1 trường hợp tử vong do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Kết luận: Phẫu thuật nội soi qua đường niệu đạo cắt phì đại tiền liệt tuyến bằng điện lưỡng cực (B-TURP) là phương pháp an toàn, hiệu quả trong điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt trên nhóm bệnh nhân có bệnh lý tim mạch.
#Tăng sản lành tính tuyến tiền liệt #nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo bằng điện lưỡng cực #nội soi cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo trong nước muối (TURIS)
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM BÓC NHÂN PHÌ ĐẠI LÀNH TÍNH TUYẾN TIỀN LIỆT BẰNG HOLMIUM LASER QUA ĐƯỜNG NIỆU ĐẠO TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục đích: Trong nghiên cứu này chúng tôi áp dụng kỹ thuật bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt nội soi qua đường niệu đạo theo phương pháp 1 khối cải tiến và đánh giá tính an toàn, kết quả sớm của phẫu thuật bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt theo phương pháp bóc nhân một khối. Phương pháp nghiên cứu: chúng tôi nghiên cứu tiến cứu trên 38 bệnh nhân rối loạn tiểu tiện do u phì đại lành tính tuyến tiền liệt, được phẫu thuật bóc nhân phì đại bằng laser Holmium từ tháng 4/2020 đến tháng 8/2020. Kỹ thuật phẫu thuật bóc nhân phì đại 1 khối cải tiến được thực hiện bằng 2 đường rạch ở vị trí 12h và 6h. Trong mổ chúng tôi đánh giá thời gian bóc nhân phì đại, thời gian say nhỏ và lấy bệnh phẩm ra ngoài. Lượng máu mất, các tai biến trong mổ. Các thông số sau mổ bao gồm: thời gian đặt ống thông niệu đạo, thời gian nằm viện. Tình trạng tiểu tiện sau mổ. Các biến chứng sau mổ được đánh giá theo phân độ của Clavien–Dindo. Bệnh nhân được đánh giá theo dõi ở thời điểm 3 tháng sau mổ. Kết quả: Có 38 TH thực hiện HoLEP. Tuổi trung bình là 73.7 ± 10.4,. có 52.6% bệnh nhân có bệnh lý nền kèm theo. 100% bệnh nhân nhập viện với điểm IPSS ở mức độ nặng ≥ 20 điểm (trung bình trước mổ là 28.95)  và 84.21% bệnh nhân đánh giá chất lượng cuộc sống ở mức khổ sở, không chịu được với điểm QoL ≥ 5 điểm. Thể tích TTL đo được trên siêu âm trung bình là 75.97 ± 27.65 ml. Thời gian phẫu thuật trung bình là 96.84 ± 11.47. Thời gian bóc u trung bình là 66.21 ± 10.81.Mức chênh lệch HGB trước và sau mổ không đáng kể 1.09 ± 0.78 g/dL, tuy nhiên biến chứng sau mổ cao nhất là truyền máu sau mổ với 10.53% do đa số các trường hợp này có mức HGB trước mổ thấp. Thang điểm quốc tế về triệu chứng TTL (IPSS) cải thiện sau mổ 1, 3, 6 tháng xuống lần lượt là 6.16, 4.39, 3.61. 100% bệnh nhân đánh giá chất lượng cuộc sống sau 6 tháng phẫu thuật ở mức tốt với điểm QoL trung bình là 1.24.  Kết luận: Phẫu thuật bóc nhân phì đại lành tính TTL HoLEP ở bệnh nhân U phì đại lành tính TTL là phẫu thuật an toàn dễ thực hiện và có hiệu quả với mọi kích thước của u phì đại lành tính tuyến tiền liệt.
#Bóc nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt #Holmium laser #HoLEP
Phương pháp kiểm tra điểm đặc hiệu methyl hóa để cải thiện độ đặc hiệu và độ nhạy của PCR đặc hiệu methyl hóa trên phân tích methyl hóa DNA Dịch bởi AI
International Journal of Clinical Oncology - Tập 20 - Trang 839-845 - 2015
Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là phát triển một phương pháp kiểm tra điểm đặc hiệu methyl hóa (MSP-DB) nhằm tăng cường độ nhạy và độ đặc hiệu của việc phân tích methyl hóa đồng thời trên nhiều gen, để đánh giá trạng thái methyl hóa của GSTP1 và RASSF1A trong các trường hợp ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới Việt Nam. Trạng thái methyl hóa của GSTP1 và RASSF1A đã được điều tra bằng cách sử dụng phương pháp MSP trên 50 mẫu ung thư tuyến tiền liệt và 17 mẫu phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Phương pháp kiểm tra MSP-DB, sử dụng một hoặc nhiều mồi, đã phát hiện một cách đặc hiệu trạng thái methyl hóa của một gen cụ thể hoặc của cả hai gen GSTP1 và RASSF1A cùng một lúc trong một loạt mẫu. Độ nhạy và độ đặc hiệu của MSP-DB đã được so sánh với MSP. Các mồi lai đặc hiệu chỉ với các mục tiêu đã methyl hóa trong MSP-DB, cho phép phát hiện methyl hóa GSTP1 và RASSF1A trong 23 trên 50 và 14 trên 50 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt, cũng như trong 2 trên 17 và 4 trên 17 bệnh nhân phì đại lành tính tuyến tiền liệt. MSP-DB theo sau phương pháp MSP đã cải thiện độ nhạy của việc phát hiện lên tới hơn 0.01% trạng thái methyl hóa của một khu vực giàu CpG. Một sản phẩm MSP methyl hóa tương ứng với GSTP1, thiếu cytosine methyl hóa, được phát hiện rõ ràng trên điện di gel nhưng hầu như không nhìn thấy trên MSP-DB. Do đó, MSP-DB phù hợp để loại bỏ nguy cơ kết quả dương tính giả. MSP-DB đã khắc phục những điểm yếu của MSP và tăng cường độ nhạy cho phân tích methyl hóa đồng thời của nhiều gen. MSP-DB có lợi cho việc thúc đẩy các dấu hiệu methyl hóa DNA tiến nhanh hơn về ứng dụng lâm sàng.
#methyl hóa #GSTP1 #RASSF1A #ung thư tuyến tiền liệt #phì đại lành tính tuyến tiền liệt #phương pháp MSP-DB #phân tích methyl hóa #độ nhạy #độ đặc hiệu
Silodosin cải thiện các hậu quả chức năng của tắc nghẽn đường tiết niệu dưới do phì đại tuyến tiền liệt lành tính, một nghiên cứu chứng minh khái niệm trên chuột tự sinh huyết áp cao được bổ sung testosterone Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2020
Mục đích chính của nghiên cứu này là điều tra ảnh hưởng của silodosin đối với các hậu quả urodynamic trong một mô hình đã được thiết lập về triệu chứng đường tiết niệu dưới liên quan đến phì đại tuyến tiền liệt lành tính, chuột tự sinh huyết áp cao (SHR) được bổ sung testosterone. Ba nhóm động vật (8 tuần tuổi; n = 10/group) đã được xem xét: chuột Wistar Kyoto (WKY) (nhóm đối chứng), SHR được bổ sung testosterone với liều 3 mg/kg/ngày và điều trị bằng dung dịch (SHR-T, n = 10) hoặc silodosin với liều 0.1 mg/kg/ngày (SHR-T + silodosin, n = 10) qua đường uống trong 6 tuần. Các thí nghiệm cystometry đã được thực hiện. Bàng quang được thu hoạch, cân và nhúng trong paraffin để phân tích định hình. Tuyến tiền liệt cũng được thu hoạch và cân. Số lượng động vật tham gia phân tích là n = 10/10 cho WKY và n = 7–8/10 cho mỗi nhóm chuột SHR được bổ sung testosterone. SHR-T cho thấy sự giảm đáng kể trong khoảng thời gian giữa các cơn co bóp, thể tích được bơm và lưu lượng trung bình trong khi tần suất các cơn co bóp không dẫn đến đi tiểu đã tăng lên. Silodosin đã cải thiện hành vi đi tiểu của SHR-T bằng cách tăng đáng kể khoảng thời gian giữa các cơn co bóp, thể tích được bơm và lưu lượng trung bình trong khi giảm số lượng các cơn co bóp không dẫn đến đi tiểu. SHR-T cho thấy sự gia tăng đáng kể về trọng lượng tuyến tiền liệt và bàng quang cũng như tăng 15% về diện tích thành cơ đuôi so với WKY. Việc điều trị silodosin kéo dài đã giảm nhẹ các triệu chứng tích trữ ở SHR được bổ sung testosterone và giảm tần suất các co bóp không dẫn đến đi tiểu trong giai đoạn làm đầy.
#silodosin #phì đại tuyến tiền liệt lành tính #chuột tự sinh huyết áp cao #urodynamic #triệu chứng đường tiết niệu dưới
Ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn A Dịch bởi AI
Archiv für pathologische Anatomie und Physiologie und für klinische Medicin - - 1979
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề về tỉ lệ mắc, hình thái học và lịch sử tự nhiên liên quan đến ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn A hoặc vi ung thư tiền liệt tuyến (PMC). Các tuyến tiền liệt của 100 bệnh nhân, được điều trị bằng phương pháp cắt bỏ tuyến tiền liệt từng phần do phì đại lành tính tuyến tiền liệt (BPH), đã được nghiên cứu bằng cách so sánh giữa các kỹ thuật cắt lớp thường quy và kỹ thuật cắt lớp từng bước. Tỷ lệ PMC là 41% theo phương pháp cắt lớp thường quy và 86% theo phương pháp cắt lớp từng bước. Đánh giá kích thước của PMC, được đo bằng tổng của hai đường kính chính, đã tạo ra ba nhóm: A1, A2, A3. Nhóm cuối cùng có thể biểu thị một tình trạng ác tính rõ ràng, được đánh giá dựa trên kích thước và hình dạng mô học. Cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt được khuyến nghị mạnh mẽ như là phương pháp điều trị thích hợp cho nhóm này.
#ung thư tiền liệt tuyến #vi ung thư tiền liệt tuyến #phì đại lành tính tuyến tiền liệt #cắt bỏ tuyến tiền liệt #phương pháp cắt lớp
Mật độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt: Vai trò trong phì đại tuyến tiền liệt lành tính, neoplasia nội biểu mô tiền liệt tuyến, carcinom tuyến tiền liệt tại chỗ và carcinom tuyến tiền liệt giai đoạn muộn Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 27 - Trang 757-761 - 1995
Để xác định vai trò tương đối của mật độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSAD) trong việc phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt và để đánh giá giả thuyết rằng PSAD mang lại những lợi ích đáng kể hơn so với kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) đơn thuần trong việc đánh giá bệnh nhân có bệnh lý tiền liệt tuyến lành tính (BPH), tiền ác tính (PIN) và ác tính, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên 149 bệnh nhân được đánh giá bằng phương pháp sinh thiết tuyến tiền liệt hoặc phương pháp phẫu thuật. Mật độ PSAD được tính trung bình là 0.1 đối với bệnh nhân BPH; 0.09 đối với bệnh nhân PIN-1; 0.1 đối với bệnh nhân PIN-2; 0.51 đối với bệnh nhân carcinom tuyến tiền liệt tại chỗ (CaP) và 1.7 đối với bệnh nhân CaP giai đoạn muộn. Mặc dù chúng tôi không thể phân biệt BPH với PIN-1 và PIN-2 bằng cách sử dụng PSAD đơn thuần (p>0.05), nhưng có sự khác biệt thống kê đáng kể giữa BPH so với CaP tại chỗ, PIN-2 so với CaP tại chỗ và CaP tại chỗ so với CaP giai đoạn muộn (p<0.05). Kết luận, chúng tôi đề xuất rằng thông tin cung cấp bởi PSAD vượt trội hơn so với các giá trị PSA tuyệt đối trong việc phân biệt giữa BPH và CaP, nhưng PSAD không thể cung cấp thêm thông tin trong việc phân biệt BPH với các tình trạng tiền ác tính.
#mật độ kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt #ung thư tuyến tiền liệt #phì đại tuyến tiền liệt lành tính #neoplasia nội biểu mô tiền liệt tuyến
Vapoenucleation tuyến tiền liệt bằng laser thulium công suất cao: Nghiên cứu theo dõi một năm Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 15 - Trang 1-7 - 2015
Sự bốc hơi và cắt bỏ tuyến tiền liệt là một lựa chọn điều trị mới cho tắc nghẽn lối ra bàng quang do phì đại tiền liệt lành tính. Tuy nhiên, kỹ thuật phẫu thuật này vẫn chưa được chuẩn hóa. Chúng tôi trình bày những phát hiện của chúng tôi khi sử dụng laser thulium công suất cao để thực hiện vapoenucleation tuyến tiền liệt (ThuVEP). Chúng tôi đã thu thập và phân tích dữ liệu từ 29 bệnh nhân được tiến hành ThuVEP từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 5 năm 2012. Nhóm chứng bao gồm 30 bệnh nhân trải qua phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo truyền thống (TURP). Các biến phẫu thuật, hồ sơ bệnh nhân, lưu lượng nước tiểu trước và sau phẫu thuật, thể tích tuyến tiền liệt (được đo bằng siêu âm qua trực tràng), và điểm triệu chứng quốc tế về tuyến tiền liệt (IPSS) đã được ghi nhận và phân tích bằng kiểm định t-test hai phía và phân tích phương sai. Tuổi trung bình (trung bình ± SD) của các bệnh nhân lần lượt là 76,1 ± 9,4 và 72,6 ± 7,4 năm (p = 0,28) trong nhóm ThuVEP và TURP. Lưu lượng nước tiểu trung bình trước và sau 12 tháng phẫu thuật (thể tích/lưu lượng tối đa/lưu lượng trung bình) lần lượt là 243,3/10,5/5,0 và 302,8/17,6/9,4 (tính bằng mL, mL/s, mL/s) trong nhóm ThuVEP và 247,2/10,8/4,6 và 369,9/20,8/12,0 trong nhóm TURP. IPSS trước và sau phẫu thuật lần lượt là 17,1 ± 5,0 và 6,5 ± 3,8 trong nhóm ThuVEP và 18,2 ± 4,5 và 6,2 ± 3,3 trong nhóm TURP. Tỷ lệ thể tích tuyến tiền liệt tồn dư ước tính sau phẫu thuật so với thể tích tổng trước phẫu thuật trung bình là 0,47 (p = 0,449) ở cả hai nhóm. Tỷ lệ biến chứng tổng thể là 20,7% trong nhóm ThuVEP và 30,0% trong nhóm TURP. Một năm theo dõi cho thấy ThuVEP và TURP đã giảm triệu chứng đi tiểu chủ quan và khách quan hiệu quả với tỷ lệ biến chứng thấp. Do đó, vapoenucleation sử dụng laser công suất cao là khả thi ở những bệnh nhân cao tuổi. Đăng ký ISRCTN với mã số nghiên cứu ISRCTN52339705. Ngày được chỉ định: 06/03/2015.
#Vapoenucleation #laser thulium #tắc nghẽn lối ra bàng quang #phì đại tiền liệt lành tính #nghiên cứu theo dõi
Tổng số: 17   
  • 1
  • 2